Saturday, April 27, 2013

Xã hội dân sự trong các chế độ cộng sản đang đổi mới: Logic xuất hiện ( BÀI 5)


Marcia A. Weigle, Jim Butterfield
Lâm Yến dịch


Bình thường hoá cộng sản

Trotsky, Stalin, Hitler, Mao, và Pol Pot; mỗi người trong bọn họ đều hiểu được các nguy cơ mà quá trình bình thường hoá sau cách mạng sẽ gây ra cho các mục tiêu toàn trị. Mỗi người đưa ra một phương pháp giải độc: Trotsky rao giảng về cách mạng toàn cầu; Stalin thể chế hoá các cuộc thanh trừng quy mô lớn; [1] Hitler chuẩn bị và tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược; Mao kêu gọi một cuộc cách mạng văn hóa; Pol Pot huỷ diệt có hệ thống chính người dân của mình. Nên làm rõ ở đây rằng áp lực bình thường hoá không đến từ một xã hội dân sự kiên cường -cái mà tiếng nói của nó phải được lắng nghe- hay từ thách thức hiện đại hoá đến từ các địch thủ toàn cầu. Để chắc chắn, quá trình bình thường hoá thời kỳ sau-Stalin diễn ra trong bối cảnh toàn cầu được khắc hoạ bởi hai điểm mới. Thứ nhất là chiến tranh hạt nhân-không phải loại chiến tranh thích hợp để làm hồi sinh nhiệt tình cách mạng đã phai nhạt. Thứ hai là sự gia tốc của công nghệ và sự vượt xa về kinh tế của phương Tây. Cả hai thuyết phục chủ nghĩa cộng sản hình thành động cơ "bắt kịp" trong điểm nhấn về ý thức hệ-quân sự mới. Tuy nhiên, sẽ là không đúng nếu cho rằng bối cảnh quốc tế là yếu tố quan trọng nhất khi xác định các tham số và khảo sát các biểu hiện của quá trình bình thường hoá. Thay vào đó, các yếu tố quyết định là sự dịch chuyển các quan hệ quyền lực trong logic cứng của hệ thống toàn trị.

Sự cố kết cách mạng giữa các lãnh tụ với lực lượng cán bộ-hòn đá tảng của tính chính đáng từ bên trên-là cái khó đạt được và cũng khó duy trì. Thay vào đó, xung đột là cái khó tránh khỏi giữa các lãnh tụ tận tụy với sự trong sáng cách mạng và đội ngũ nhân viên ngày càng bận bịu với nhiệm vụ thế tục. Bình thường hoá, theo mô tả của Weber, là một kết quả của sự xung đột lưỡng bại câu thương này. Và, mỉa mai thay, các lãnh đạo và đội ngũ cán bộ thường hình thành các quan hệ ít xung đột và nhiều tính tương hỗ hơn chính trong quá trình bình thường hoá. Tuy nhiên, cũng như với sự chuyển đổi từ các nền chuyên chế phong kiến độc đoán sang chuyên chế quan liêu, [2] sự tương hỗ dẫn đến thắng lợi của đội ngũ cán bộ và nền thể chế chính thống của họ. Nó không mang lại sự hội tụ với các mô hình phát triển và chính đáng hoá kiểu phương Tây, cho dù là mô hình chuyên chế [kiểu phương Tây].

Bình thường hoá không đem lại sự lột xác các nhà nước cộng sản thành các nền độc tài-hướng tới-phát triển. Với toàn bộ sự tập trung của họ vào việc đuổi kịp, và với mọi nỗ lực của họ nhằm nới lỏng tấm áo khoác Nga chật cứng và hướng sự chú ý của họ vào tình trạng chậm tiến trong nước mình, [3] các chế độ Đông Âu vẫn nghĩ theo cách bắt kịp và thay thế các mô hình phương Tây. Đến lượt nó, sự tái xác nhận về các mục tiêu tập thể và toàn cầu này đòi hỏi sự xác nhận giống nhau về sự siêu việt mang tính di truyền và bản sắc độc đáo của chủ nghĩa cộng sản. Và trong trường hợp các quốc gia cộng sản vệ tinh, nó đòi hỏi một nỗ lực được chỉ đạo nhịp nhàng nhằm diệt tận gốc, phủ nhận, hoặc xuyên tạc nếu cần thiết, lịch sử quốc gia và các tư liệu về nó. Phần lớn trong số này [được thực hiện một cách] khéo léo, hợp lý giả tạo và vô lương tâm. Vẫn những bí ẩn cộng sản không thể thay đổi này tiếp tục tồn tại-ngay cả sau thời kỳ phi-Stalin- hoá và cả khi các bí ẩn này đã đượm vẻ thế tục. [4] Hơn nữa, không phải mục tiêu cạnh tranh hoà bình với phương Tây đã định hình lộ trình kinh tế công nghiệp. Thay vào đó, là sự đầu tư vào quân sự và sự chuẩn bị sẵn sàng về hạt nhân, cộng thêm với mẫu hình hợp tác phụ thuộc giữa các quốc gia vệ tinh và [nhà nước] cầm đầu, hướng tới các quan tâm về siêu cường kinh tế-quân sự.

Bình thường hoá có nghĩa là sự kết thúc của chuỗi kinh hoàng Stalinist và [sự khởi đầu của] giai đoạn mà các hành vi của giới cầm quyền cộng sản trở nên dễ phỏng đoán hơn, [5] nhưng nó không có nghĩa là sự tương đối hoá Đảng Cộng sản. [6] Điều này sẽ không bao giờ thành hiện thực nếu không có sự thu hẹp nghiêm trọng các mục tiêu toàn cầu của chủ nghĩa cộng sản (chỉ diễn ra trong phần sau của thập kỷ 80) và đi kèm là nền kinh tế tập trung được lái theo hướng đáp ứng những mục tiêu đó. Ngược lại, bình thường hoá đánh dấu thắng lợi cuối cùng của Đảng trước sự chuyên quyền của các lãnh tụ thuyết Cứu thế (salvationist leaders) và vì thế, sự độc đoán hoá [7] việc cai trị đã trở thành thường lệ. Hơn thế, Đảng đã không đi tìm một cách lý giải mới mang tính duy lý-hợp pháp cho sự cai trị của họ. Luật pháp vẫn bị nhìn nhận [như là một] công cụ cai trị. [8] Và tính chính đáng của Đảng vẫn không phụ thuộc vào bảng thành tích lãnh đạo của nó (một bảng thành tích mà trong nhiều sự kiện nó vẫn còn là quan toà phán xét); thay vào đó, tính chính đáng vẫn đến từ các bí ẩn-có thể đã bị phàm tục hoá, nhưng vẫn được quả quyết một cách ngạo mạn-về tính siêu việt trong nhận thức vốn có. Tuy nhiên, ngay cả những người trong giai cấp chính trị có thể đã bắt đầu có những nghi vấn (như một số người gần đây ở Đông Âu) vẫn bị ép buộc phải bảo vệ bí mật chính thức (do các sức ép từ bên ngoài và cũng thông qua các cơ chế phủ nhận). [9] Vì thế, sự chiếm hữu, bất khả tín, đặc quyền đặc lợi và [quan hệ] qua lại giữa các lãnh đạo và đội ngũ cán bộ chỉ là các đặc điểm nổi lên của một nomen-klaturas mới. [10] Việc Brezhnev kêu gọi giành sự tin tưởng và bảo vệ đội ngũ cán bộ đã nêu bật lên được cốt lõi của hiện tượng bình thường hoá.

Bình thường hoá, dưới con mắt của các công dân, không có nghĩa sẽ đem lại sự giải phóng, chứ đừng nói đến dân chủ hoá. Sự giải phóng đòi hỏi những thay đổi chính thức trong các thể chế và thủ tục nhất định nhằm đặt lại câu hỏi về chủ quyền của công chúng: ai sẽ chính đáng hoá ai? Sẽ cần đến các phương pháp để xác nhận lại nguyên tắc pháp quyền (rule of law), để cho phép một mức tranh cử và cạnh tranh thể chế đến các cương vị quyền lực nhất định, để làm mạnh các thể chế đại diện, để mở rộng tự do dân sự, để buộc giới hành chính phải cởi mở hơn và khả tín hơn. [11] Sự giải phóng luôn tạo ra những thoả hiệp: các nền độc tài mềm mỏng đã cởi mở để kiên nhẫn hơn, nhưng vẫn để các nguồn gốc về tính chính đáng của mình trong nghi hoặc. Tuy nhiên, quá trình bình thường hoá cộng sản không bao giờ có ý định để xứng đáng với tính chính đáng và chủ quyền [chân chính]. Nó được thiết kế để đem lại một nền tảng mới vững chắc hơn cho các Đảng Cộng sản; cái mà những người đầy nhiệt huyết và có sức thu hút quần chúng của học thuyết Stalin đã làm mất thăng bằng. Nếu quá trình bình thường hoá đòi hỏi một quan hệ mới và bền vững hơn với công dân, thì nó sẽ đòi hỏi quan hệ qua lại (hay theo cách nói của Feher, là chế độ gia trưởng) chứ không phải sự giải phóng. [12]

Các giới hạn của chế độ gia trưởng, như lời Feher miêu tả, là rất rõ ràng. Để đổi lấy sự chấm dứt những cơn ác mộng của quá khứ và cho một cuộc sống dễ đoán định và dễ chịu hơn, công dân phải dâng hiến [cho Đảng] sự vâng lời về mặt chính trị. Trong con mắt của các chế độ cộng sản, sự bảo vệ được mua với cái giá là các quyền chính trị và dân sự. [13] Không có giải phóng, không có những hình thái đơn giản nhất của pháp quyền, công dân không có quyền gì hơn là thỉnh cầu sự thăng tiến. Họ được "đề bạt" lên chức con dân của vị trưởng thượng toàn năng, và có thể có lòng thương người. Vị trưởng thượng này vẫn tiếp tục là quan toà tuyệt đối về các động cơ và các hành vi thiếu nhất quán của ông ta. Hơn thế, vì con dân là những kẻ nhược tiểu, nhà nước thường có khuynh hướng xác định cho họ một số lựa chọn sống ít ỏi -trong công việc, tiêu dùng và tiện nghi.

Tuy nhiên, mặc cho sự tự tin đến đâu, quá trình bình thường hoá đã đem đến cùng với nó nhiều trục trặc và căng thẳng trong tấm áo giáp về tính chính đáng của cộng sản. Cả chế độ gia trưởng và [nhu cầu] đuổi kịp phương Tây đã đem lại một tiêu chuẩn thay thế về tính chính đáng: đó là cam kết về bảng thành tích vật chất, tức là, cam kết về một sự đổi thay có thể nhìn thấy. Để chắc chắn, nomenklaturas cộng sản tiếp tục công khai khẳng định tính bất khả sai về mặt nhận thức. Nhưng việc ngày càng nhiều người từ bỏ ngôn ngữ Cứu thế và việc chấp nhận những mục tiêu tầm trung thế tục hơn đã mở ra con đường cho các công dân thông tuệ hơn [có thể] xác minh xem những mục tiêu đó đã được thực hiện chưa. Sự thực rằng những mục tiêu này không thể nào đạt được trong thời gian gần sẽ nhanh chóng trở nên hiển nhiên.

Thực ra, bình thường hoá diễn ra hoàn toàn khớp với thờì điểm cạn kiệt của giai đoạn năng động trong sự phát triển kinh tế-quân sự của cộng sản: giai đoạn "băng chuyền lắp ráp" công nghiệp hoá thành công, sâu sắc và được nhìn nhận hạn hẹp. Sự phát triển kinh tế tiếp theo đòi hỏi nhiều bí quyết công nghệ phức tạp hơn và sự cộng tác tự nguyện của nhiều chuyên gia được đào tạo tốt hơn. Tuy nhiên, triển vọng đạt đến mức độ này tỏ ra mờ mịt, khi mà lãnh đạo cộng sản không muốn tiến hành những bước cải cách dũng cảm hơn, thậm chí đe doạ về mặt chính trị, vượt ra ngoài khuôn khổ bình thường hoá. Vì vậy, chính khi công chúng trở nên ngày càng nghi kỵ hơn, việc giải thích sẽ khó khăn hơn, chứ đừng nói gì đến phủ nhận những thất bại chồng chất. Gianfranco Poggi đã nắm bắt thành công những khó khăn đang xuất hiện trong các nhà nước cộng sản khi họ muốn nhào nặn cảm xúc của công chúng:

"Trong khi nhà nước kiểu Soviet cam kết có thành công về kinh tế, nó lại bị đày đoạ trong sự thất bại kinh tế ở mọi mức độ, vì bảng thành tích kinh tế của nó bị đo lường trong tương quan với các nền kinh tế tư bản tiến bộ... Sự nghiêm trọng của mâu thuẫn này càng trở nên rõ ràng một khi người ta nhận ra rằng cụm từ "mọi mức độ" không cho phép một lối thoát nào. Có 3 lý do mà nhà nước Soviet không thể không so sánh mình với các nền kinh tế tư bản hàng đầu: vì quan hệ bền chặt giữa khả năng công nghiệp-công nghệ với sự sẵn sàng chiến đấu của quân đội; vì một xã hội tự nhìn nhận mình (như xã hội Soviet đã làm) như một mẫu hình của sự phát triển xã hội phổ quát, thì ít ra xã hội đó cũng phải tự duy trì được bảng thành tích kinh tế; và vì đã từ quá lâu, nhà nước Soviet đã bán mình cho toàn bộ công dân của đất nước bằng lời hứa hẹn sẽ đuổi kịp và vượt qua điều kiện sống của các nước tư bản phát triển. (Thuật ngữ "đã từ quá lâu" được dùng với dụng ý, vì nó chỉ ra một mâu thuẫn nữa. Tôi vừa muốn diễn đạt rằng những lời hứa ấy đã được đưa ra quá lâu để những người được hứa hẹn có thể tin; và rằng nó được đưa ra quá lâu để những người hứa hẹn có thể rút lại.) [14]

Không có điểm nào trong số này hàm ý rằng quá trình bình thường hoá sau-Stalin lại phải đối mặt với đe doạ trực tiếp từ công chúng. Sự đối lập giữa hai nguyên tắc về tính chính đáng -một từ bên trên, và cái còn lại từ bảng thành tích vật chất và vì thế chịu sự phán xét của công chúng- đã được giải quyết đơn giản bằng cách đàn áp bất đồng dưới danh nghĩa của nguyên tắc thứ nhất, nguyên tắc chặn trước. Điều này cũng áp dụng cho Đông Âu không kém hơn ở Liên Xô. Hẳn nhiên, sự khẳng định về tính chính đáng của Đông Âu dựa trên nền tảng kém bền vững hơn nhiều: trước hết, chủ nghĩa cộng sản bị áp đặt chủ yếu từ bên ngoài; thứ hai, việc tồn tại các nguồn gốc phụ khác về tính chính đáng, mang đặc trưng quốc gia, dựa trên chủ nghĩa dân tộc hay các thành tựu hoặc truyền thống địa phương, hoặc phần lớn giả bộ hoặc khó chuyển lậu qua học thuyết Soviet về chủ quyền hạn chế. Tuy nhiên, chừng nào mà sự giám hộ của Soviet vẫn còn, thì chừng đó các chế độ ở Đông Âu vẫn ảm đạm bám víu vào viễn tưởng về tính chính đáng cộng sản và, được che chắn bởi viễn tưởng có kiểm soát, vẫn phản ứng lại với bất đồng bằng sự đàn áp đầy phẫn nộ.

Với những đặc điểm của quá trình bình thường hoá cộng sản và tính chính đáng như thế, xã hội dân sự đã tồn tại như thế nào?

Xã hội dân sự dưới chế độ cộng sản

Xã hội dân sự đã bất ngờ trở thành nhân vật chính trong cuộc chuyển đổi ở Đông Âu - bất ngờ ở hai lý do [15] . Một là, những quá trình chuyển đổi từ các nền độc tài phương Tây cho thấy xã hội dân sự thường chỉ đóng vai trò thứ yếu trong tiến trình dân chủ hoá, cái vốn bắt nguồn từ trong chính nền độc tài. Thứ hai, vì sự tồn tại của một xã hội dân sự thường mâu thuẫn sâu sắc với học thuyết cộng sản, nên không giống như các nền độc tài phương Tây, chủ nghĩa cộng sản đáng lẽ ra phải không chừa một chỗ dung thân nào cho xã hội dân sự.

Dù vậy, trong nhiều năm, các nhà khoa học xã hội Đông Âu, phần lớn là các nhà bất đồng chính kiến, đã rất quan tâm đến số phận của xã hội dân sự trong giai đoạn bình thường hoá. Họ phân biệt giữa các mục tiêu trên giấy của chủ nghĩa toàn trị và những thành quả thực tế của toàn trị; tức là, chủ nghĩa toàn trị như là một loại hình lý tưởng không được phép nhầm lẫn với những phiên bản thực tế rất đa dạng của nó. Cũng như chủ nghĩa toàn trị, với tư cách là một cấu trúc chính trị thuần tuý, không có khả năng dự đoán cách mà các tiến trình xã hội sẽ phản ứng với thực tiễn chính trị- đây đúng ra là một vấn đề thực nghiệm. [16]

Nhiều nhà phân tích Đông Âu [17] lập luận rằng tuyên bố của chủ nghĩa toàn trị về độc quyền tư tưởng, cùng với nhận thức sai lạc về hiện thực đang ngày càng tồi tệ, đã và đang là một trong những vũ khí chủ yếu của nó nhằm chống lại xã hội dân sự; nhưng nó cũng đồng thời là tia lửa thổi bùng lên sự phản kháng xã hội và sau đó là sự hồi sinh mạnh mẽ của xã hội khi mà cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa cộng sản bùng phát. Sự trỗi dậy của xã hội dân sự dưới chủ nghĩa cộng sản, do đó, tương tự như sự trỗi dậy của xã hội dân sự dưới chủ nghĩa chuyên chế: Nó là một phản ứng đối kháng, có khả năng làm thay đổi các quan hệ quyền lực. Trong một nền dân chủ, xã hội dân sự là một phần không thể tách rời của hệ thống cai trị (system of rule) Trong chủ nghĩa cộng sản, theo đúng định nghĩa của nó, những tiền đề pháp lý-chính trị cho một sự cộng sinh như thế hoàn toàn vắng mặt. Tương tự với chủ nghĩa chuyên chế, động lực để xã hội dân sự trỗi dậy là một phản ứng với arcana imperii của những kẻ thống trị.

Sự độc lập kinh tế (độc lập của một xã hội tư sản) không phải là điều kiện bắt buộc cho phản kháng, trừ khi nó được xem xét dưới một quan điểm Marxist hạn hẹp, và sự độc lập này không cần thiết cho các phê phán của giới trí thức về chủ nghĩa chuyên chế. [18] Cuối cùng, trong phần này, tôi sẽ chứng minh rằng một nhãn quan thuần tuý nội địa sẽ không thể giải thích được một cách triệt để sự tồn tại của các xã hội Đông Âu dưới chủ nghĩa cộng sản, hay giải thích được bản chất của các đòi hỏi dân sự cũng như nguồn cảm hứng của nó. Vai trò của Tây Âu như là một " xã hội đối chiếu " -theo như thuật ngữ của Reinhard Bendix- là rất quan trọng về mặt này, và nếu so với các trường hợp mà trí thức vận động chống lại các nền độc tài ở phương Tây, thì ở đây, thậm chí nó còn quan trọng hơn nữa.

Những điểm yếu của xã hội dân sự

Vì mục tiêu của phần này là tìm hiểu sự vận động của trí thức chống lại chủ nghĩa cộng sản, chúng ta sẽ quan tâm đặc biệt đến cách mà những người dân Đông Âu cảm nhận tình cảnh của họ dưới chủ nghĩa cộng sản. Tôi đã bàn về hai điểm yếu của xã hội dân sự trong quá trình bình thường hoá: Sự độc quyền nhận thức về tư tưởng xã hội của Đảng và sự hợp tác của quần chúng với hệ thống [tự xưng là] cha mẹ dân. Đấy là các điểm yếu được chính những người Đông Âu nhận thức rất rõ.

Mỗi nền độc tài đều tìm cách kiểm soát thông tin liên quan đến chính nó, liên quan đến nền chính trị, hiện tại và quá khứ, mà xã hội của nó thu nhận. Mỗi nền độc tài đều tìm cách làm suy yếu xã hội, khiến cho xã hội không thể vận hành như là một nguồn độc lập cung cấp những thông tin kiểu như thế. Hầu hết các nền độc tài hiện đại làm vậy là do điều kiện thuận tiện, và thường lấp liếm là do các hoàn cảnh đặc biệt. Một vài nền độc tài còn viện dẫn nhu cầu mang tính chuẩn tắc về một trạng thái cân bằng có trật tự giữa nhà nước và xã hội. Chỉ có chủ nghĩa cộng sản (giống như chủ nghĩa phát xít Đức và Ý xưa kia) là tuyên bố thẳng thừng độc quyền nhận thức như thể họ là kẻ gác đền của một chân lý tối cao.

Tuy nhiên, khi chủ nghĩa cộng sản chuyển từ thời đại Stalin sang thời đại bình thường hoá, từ tinh thần cứu rỗi sang cạnh tranh xã hội-khoa học với phương Tây, từ tiêu diệt hàng loạt sang các nhà tù/trại tập trung và các nhà thương điên, thì chân lý cộng sản đã khoác lên mình một vẻ thế tục. Tuy vậy, chính bước chuyển từ "cái nóng" huỷ diệt và thanh trừng/autos-da-fe sang "cái mát mẻ" nắn gân tâm lý đã cho thấy một nỗ lực pháp chế hoá sự kiểm soát nhận thức, chứ không phải muốn vứt bỏ nó đi. Tương tự, các thay đổi về kiểu nạn nhân gợi ý rằng có sự phục tùng bề ngoài tăng dần lên trong giai đoạn bình thường hoá. Trong thời Stalin, các nạn nhân từng là giai cấp "khách thể" hoặc các kẻ thù của đảng: địa chủ (kulak), một số các sắc tộc (entire nationalities), những đảng viên đầu não bị thoái hoá biến chất. Sau thời Stalin, họ là các nhà bất đồng chính kiến trí thức tản mác và "chủ quan". Aleksandr Zinoviev đã tiến một bước dài khi lập luận rằng trong thời kỳ bình thường hoá, chủ nghĩa cộng sản đã sản sinh ra một "chủ nghĩa toàn trị từ bên dưới," trong đó bất đồng chính kiến và nhà tù chính trị không còn có ích nữa. [19] Bất đồng chính kiến là cái có thể thao túng được, còn nhà tù chính trị là cái trên thực tế không còn cần thiết.

Không nhiều các nhà khoa học xã hội Đông Âu có những đánh giá cực đoan như Zinoviev. Nhưng không có một nhà bất đồng chính kiến nào không nhận thức được hiệu ứng ngột ngạt của chính sách độc quyền tư tưởng chính trị lên bất đồng chính kiến- ngay cả ở những nơi mà bất đồng chính kiến mạnh hơn (ví dụ ở Đông-Trung Âu). Phân biệt giữa thật và giả bị xoá sạch, và chỉ có những kẻ cai trị, những tên gác đền cho lịch sử thế tục (hay ý nguyện thiêng liêng), mới biết được cái nào là cái nào. Norberto Bobbio đã chỉ ra rằng, trong một nền dân chủ, một trò lừa đảo chính trị bao giờ cũng được nhìn nhận là một trò lừa đảo chính trị. [20] Dân chủ có nghĩa là một chính phủ công khai, tức là, minh bạch. Nhưng một kẻ cai trị chuyên chế đang nắm giữ một sự thật sẽ chẳng bao giờ có bổn phận phải công khai các hành vi của mình. Họ luôn đúng một cách tự động. Leszek Kolakowski nói về chủ nghĩa cộng sản như sau:

"Nếu... không có cách gì để một người xác định thế nào là "đúng" theo nghĩa thường của thế giới, [thì] chẳng còn lại gì ngoài các niềm tin được áp đặt, cái, tất nhiên là, có thể bị huỷ bỏ ngay ngày hôm sau. Không có một tiêu chuẩn nào cho sự thật ngoài cái vẫn được rao giảng là đúng trong mọi thời điểm. Và như thế, sự dối trá cũng trở thành sự thực, hoặc ít ra là sự phân biệt giữa đúng và sai theo nghĩa thông thường đã bị biến mất. Đó là một chiến thắng nhận thức vĩ đại của chủ nghĩa toàn trị: nó không còn bị tố cáo là nói láo nữa vì nó đã xoá bỏ một cách thành công ngay chính ý tưởng về sự thực". [21]

Đến lượt nó, sự quanh co về ngôn ngữ đã dập tắt các quan điểm bất đồng bằng cách tạo ra cái mà Jadwiga Staniszkis (khi viết về Ba Lan) đã gọi là "sự kém cỏi về ngôn ngữ" của các đối thủ của chế độ. [22] Một người có thể phủ nhận định nghĩa của kẻ cai trị về hiện thực, nhưng vẫn không có khả năng [mô tả chính xác hiện thực]. Kết luận của Poggi cũng là gợi ý bình thường hoá của Brezhnev: nếu có chăng thì rất ít người còn có thể tin vào hiện thực [mà nhà nước mô tả]. Tuy nhiên, sự nhùng nhằng về ngôn ngữ - cái mà những người bất đồng chính kiến gọi là sự dối trá được thể chế hoá hoặc dối trá hiện sinh- vẫn gây ra những nhầm lẫn về nhận thức và tự nghi hoặc.

Điều này đưa ta đến với nguồn gốc yếu kém thứ hai trong xã hội dân sự, cái mà Vaclav Havel đã lập luận, bắt nguồn từ sự thật trần trụi là phải sống trong một sự dối trá đã được thể chế hoá: con người buộc phải hoạt động theo cách mà hệ thống kỳ vọng. Vì thế, bằng cách hợp tác với hệ thống, người ta đã khẳng định nó. Nhưng cái "phần thưởng" cho sự phục tùng chính trị - chủ nghĩa gia trưởng mô tả bởi Feher- mang một hiệu ứng hạ thấp chính xác hơn. Nó không chỉ hướng người ta tới sự bảo trợ của nhà nước, mà còn,
"cùng với việc các sáng kiến cá nhân, cạnh tranh và hiệu quả cũng bị loại khỏi công việc trong "chủ nghĩa xã hội thực sự". Kết quả... là một hệ thống yếu kém chung và kèm theo nó là một lợi thế khác của chủ nghĩa gia trưởng: không có sự bực dọc/chán nản vì thiếu kỹ năng... cái việc "chốn khỏi những bực dọc/chán nản" bằng cách đi vào thế giới của vô trách nhiệm và yếu kém tập thể là một trong những an ủi chính của mất tự do". [23]

Người ta thường trở nên hờ hững với các khát vọng tập thể. Lẽ thứ nhất vì họ buộc phải đầu tư quá mức thời gian của mình vào công việc duy trì sự tồn tại hàng ngày. Một hệ thống sản xuất đã đánh mất động năng bắt đầu của mình, và giờ đây nuôi dưỡng sự yếu kém, vô trách nhiệm và làm việc qua quít, cũng chịu đựng một thị trường tiêu dùng nghèo nàn trong đó hàng hoá và dịch vụ vừa hiếm vừa kém chất lượng. Vì thế:

"Trong cuộc vật lộn liên tục nhằm tiếp cận tới cái thị trường nghèo nàn này, và nói chung hơn là trong cuộc vật lộn nhằm tổ chức đời sống cá nhân mình quanh cái thị trường ấy, con người sống trong các xã hội cộng sản đã bị cướp đoạt theo đúng nghĩa đen cái nguồn gốc căn bản của sự sống: thời gian. Thời gian lẽ ra họ có thể dành cho các quan tâm cá nhân và công cộng thú vị hơn và ít hạ thấp phẩm giá mình hơn". [24]

Với những ràng buộc trong cuộc sống như vậy, liệu xã hội dân sự trong giai đoạn bình thường hoá có thể làm gì khác? Liệu có một "xã hội thứ hai", theo cách gọi của Elemer Hankiss, không thoả hiệp với chế độ và cung cấp một hình thái thay thế cho xã hội cộng sản, cả về tổ chức và lý tưởng? [25] Liệu một xã hội như vậy có thể xác định một không gian mà chế độ không thể đụng chạm tới, không thể gây ô nhiễm, hoặc kiềm chế? Dựa trên bằng chứng và lập luận tới nay, câu trả lời sẽ là không. Hầu hết những người sống trong xã hội thứ hai cũng đồng thời sống trong xã hội thứ nhất, vì thế, cái tồn tại phần lớn là một xã hội lai tạo, song song không hoàn chỉnh. [26] Trong một số hình thái biểu hiện bên ngoài, xã hội này không những còn xa mới trở thành đối kháng với chế độ, mà còn bị lôi kéo vào một quan hệ nửa-trung thành. Đó là cái được gọi bằng cái tên nền kinh tế thứ hai, cái mà các chế độ cộng sản sau này -khi phải đối mặt với sự tê liệt của các mô hình xã hội của họ- buộc phải khuyến khích; chế độ hưởng thụ từ những ưu đãi cá nhân, hối lộ, và thị trường hành chính. Với biểu hiện còn lại của xã hội thứ hai -cái gắn trực tiếp hơn với các không gian văn hoá, cộng đồng và chính trị- chúng ta đã chứng kiến bất đồng chính kiến bị suy yếu thế nào bởi sự ngạo mạn về nhận thức của hệ thống. Thêm vào đó là cái hiện thực về cuộc sống cơ hàn.

© 2005 Duy Tân Trẻ

© 2005 talawas

[1]Cuộc chiến tranh yêu nước chống lại Nazism cũng là một liều giải độc. Tuy nhiên, việc sử dụng chiến tranh để chính đáng hóa sự cai trị của Stalin ngày càng đem đến nhiều yếu tố mới về tính chính đáng từ bên dưới.
[2]Hans Rosenberg, Bureaucracy, Aristocracy and Autocracy (Cambridge: Harvard University Press, 1958).
[3]Di Palma (fn. 6), 9.
[4]Khrushchev bảo đảm sự liên tục này bằng cách coi các tội ác của Stalin là sản phẩm của tệ sùng bái cá nhân. Giới cầm quyền và đội ngũ cán bộ thay thế Khrushchev bảo đảm nó bằng cách xóa đi ký ức về những tội ác này và làm mềm quá trình phi-Stalin-hóa. Theo Agnes Heller, điều này cần thiết vì nó đem lại cho Đảng một nền tảng tự-chính đáng thông qua sự kế tục trung thành với truyền thống của mình. Xem Heller, "Phases of Legitimation in Soviet-type Societies," in Rigby and Feher (fn. 18), 57-58.
[5]Milan Simecka, Le rStablissement de Vordre (Paris: Maspero, 1979).
[6]Aleksander Smolar, "Le monde sovi£tique: transformation ou decadence?" in Hermet (fn. 10), 162-65.
[7]Kenneth Jowitt, "Gorbachev: Bolshevik or Menshevik?" in Stephen White et al., eds., Developments in Soviet Politics (Durham, N.C.: Duke University Press, 1990).
[8]Krygier (fn. 5).
[9]Để đối chiếu, vấn đề tự-bản sắc và vì thế, chấn thương do ly khai không được cảm nhận mạnh mẽ đến như vậy trong các chế độ chuyên chế phương Tây. Điều này đem đến sự khác biệt trong cách mà các chế độ cộng sản và độc tài phương Tây đối phó với những cuộc khủng hoảng. Xem Di Palma, To Craft Democracies: An Essay on Democratic Transitions (Berkeley: University of California Press, 1990), chaps. 8, 9.
[10]Jowitt (fn. 17).
[11]Valerie Bunce, "The Transition from State Socialism to Liberal Democracy" (Unpublished manuscript, Northwestern University, October 1988).
[12]Ferenc Feher, "Paternalism as a Mode of Legitimation in Soviet-type Societies," in Rigby and Feher (fn. 18), 64-81.
[13]Liên hệ với sự trao đổi này, và cũng để làm rõ khái niệm xã hội dân sự, Grzegorz Ekiert đã giới thiệu sự khác biệt hữu dụng giữa xã hội "nội bộ" và "chính trị". Xã hội nội bộ "đại diện cho lĩnh vực gồm các hành vi có mục đích bị giới hạn trong không gian tư và được từ chức vì các nhu cầu vật chất và lợi ích cá nhân." (Xem Ekiert, "Democratization Processes in East Central Europe: A Theoretical Reconsideration," British Journal of Political Science 21 [July 1991], 285-314, at 300.) Đó là lĩnh vực được nhà nước bảo vệ trong giai đoạn bình thường hóa cộng sản. Xã hội chính trị là khái niệm nói về không gian công mang tính chính trị hơn. Nó là lĩnh vực cần phải hi sinh trong trao đổi. Tuy nhiên, sự phân biệt này chỉ mang tính tham khảo. Vì như tôi sẽ thảo luận ở phần tiếp, mặc cho chế độ kỳ vọng gì, sự tồn tại của xã hội nội bộ cũng là những ẩn ý thú vị cho xã hội dân sự.
[14]Gianfranco Poggi, The State: Its Nature, Development and Prospects (Stanford, Calif.: Stanford University Press, 1990), 168-69.
[15]Xem một phân tích sâu hơn ở Di Palma (fn. 6), 17-19.
[16]Vujacic (fn. 4), 24-25.
[17]Nhiều trong số các nhà phân tích này được đề cập đến trong Vujacic (fn. 4); tôi vô cùng tri ân những cao kiến của ông trong phần nghiên cứu đó. Trong thuyết trình chính trị, độc quyền nhận thức, logocracy(?) và các biểu hiện tương tự của việc cộng sản chiếm hữu cái không gian nơi ý kiến công cộng vẫn được bày tỏ, xem thêm Hermet (fn.10), và Social Research 55 (Spring-Summer 1988).
[18]Nếu độc lập kinh tế là điều kiện bắt buộc, xã hội dân sự hẳn phải là điều có thể trong hầu hết các nền độc tài phương Tây và không khả thi trong các nhà nước cộng sản. Để tìm hiểu những điểm lập lờ trong chủ nghĩa Marx liên quan đến nguồn gốc tư bản hiện đại của xã hội dân sự, xem Alvin W. Gould-ner, The Two Marxisms (New York: Oxford University Press, 1982), 355-63. Andrew Arato gợi ý rằng có 3 nhánh tiềm tàng để cấu thành xã hội dân sự: logic công nghiệp hóa của tư bản, etatist logic của hiện đại hóa, và một không gian công từ bên dưới. Ông phân tích khả năng thứ 3 trong quan hệ với Ba Lan. Xem Arato, "Civil Society against the State: Poland 1980-81," Telos 47 (Spring 1981), 23-47.
[19]Zinoviev, Le communisme comme realite (Paris: l'Age d'homme, 1981); idem, Homo so-vieticus (Paris: Julliard, 1983).
[20]Bobbio, "Democrazia e governo invisibile," Rivista italiana di scienza politica 10 (August 1980), 181-203.
[21]Kolakowski, "Totalitarianism and the Virtue of the Lie," in Howe (fn. 12), 122-35.
[22]Staniszkis, Poland's Self-Limiting Revolution (Princeton: Princeton University Press, 1984).
[23]Feher (fn. 43), 76.
[24]Di Palma (fn. 6), 26. Những nhóm nomenklaturas chọn lựa này có độc quyền tiếp cận với thị trường tốt hơn và phong phú hàng hóa hơn đã làm xóa bỏ chủ nghĩa quân bình chính tại nơi mà nó có vai trò quan trọng nhất: các cơ hội của cuộc sống. Xem Victor Magagna, "Consumers of Privilege: A Political Analysis of Class, Consumption and Socialism," Polity 21 (Spring-Summer 1989), 30-41.
[25]Hankiss, "The 'Second' Society: Is There an Alternative Social Model Emerging in Contemporary Hungary?" Social Research 55 (Spring-Summer 1988), 13-42. See also idem, East European Alternatives: Are There Any? (Budapest: Institute of Social Sciences, 1988); and idem, "In Search of a Paradigm," Daedalus 119 (Winter 1990), 183-214.
[26]Benda (fn. 18) speaks of a parallel polis. Theoretically, parallel courses, in Benda's perspective, can eventually meet.

No comments:

Post a Comment